Ghé thăm làng lụa truyền thống ở Tân Châu, An Giang

Nhắc đến nghề dệt lụa, có lẽ người ta nghĩ ngay tới lụa Vạn Phúc, Hà Đông, nhưng ít ai biết được rằng, ở vùng đất phương Nam cũng có làng ươm tơ dệt lụa thành danh, nổi tiếng lâu đời với sản phẩm lụa Tân Châu. Hãy cùng Wanderlust Tips về thăm xứ lụa nổi tiếng này. 
wanderlusttips-lua-tan-chau-2
Mỹ danh “lụa Tân Châu” như cô gái nết na, đài các, là niềm tự hào của vùng đất An Giang, đã đi vào văn chương.
“Trai nào thanh bằng trai sông
Của Gái nào thảo bằng gái Tân Châu
Tháng ngày dệt lụa trồng dâu
Thờ cha, nuôi mẹ quản đâu nhọc nhằn”
Những vần thơ khắc khoải gợi cho chúng ta nhớ về một thời gian dài hơn trăm năm vang danh, được ví như thời hoàng kim của thiên đường tơ lụa Tân Châu. Cũng chính nơi đây đã sáng tạo nên lãnh Mỹ A nổi tiếng. Vì thế mà trước kia, chị em phụ nữ nào có được bộ đồ may bằng lãnh Mỹ A thì thật là sang trọng, ngay cả vải “xá xị Xiêm” – một loại lụa Thái Lan nức tiếng thời đó cũng không thể sánh được. Không những thế, có những thời điểm, lụa Tân Châu còn xuất hiện ở Ấn Độ, Singapore, Philippines… và được giới thượng lưu, hoàng tộc ưa chuộng. Dân gian còn lưu truyền câu ca “Bên nàng mặc lãnh Mỹ A/Đưa đò sang chợ, tưởng xa hóa gần”. Có cô gái mặc lãnh Mỹ A ngồi gần khiến anh lái đò cảm thấy dòng sông như ngắn lại. Điều đó ngụ ý rằng “người đẹp vì lụa”, mà đặc biệt là lụa Tân Châu lại càng tôn lên nét duyên dáng của người phụ nữ.
Ở vùng đất An Giang, người ta trồng dâu từ những bãi đất cát pha ven sông vào sâu trong đồng ruộng. Cả một triền đất trải dài là một màu xanh bất tận, nối tiếp từ làng này qua làng khác. Có những năm, ruộng dâu trồng đến hơn 10.000 hecta, trải dài từ Tân Châu, Chợ Mới đến tận biên giới Campuchia mới đủ cung cấp cho tằm ăn. Điều đặc biệt là khi hái dâu để nuôi tằm, người dân không hái từng lá mà chặt sát gốc, sau đó gom thành từng bó lớn rồi chở về. Từ khi bắt đầu nuôi tới lúc “tằm ăn lên” là cả một giai đoạn chăm sóc tỉ mỉ, kỳ công của người dân bởi gần như lúc nào họ cũng phải túc trực bên nong và bộ ván xắt dâu. Cho tới khi tằm chín mọng, kết lại thành những kén vàng ươm, người ta mới đưa lên “bủa” giăng tơ. Có thể nói, làng dệt lúc này bỗng trở nên đẹp và lung linh hơn cả. Dưới ánh nắng mặt trời, nhà nhà vàng óng những bủa tơ…
wanderlusttips-lua-tan-chau
Sau khi ươm tơ, người ta tháo tơ thô từ các bó để se lại thành sợi to rồi dệt lại thành những tấm lụa. Thời kỳ đầu của nghề ươm tơ, dệt lụa ở Tân Châu, người ta dệt lụa theo khung dệt cổ. Khổ vải dệt ra chỉ rộng khoảng bốn tấc, khi may quần áo phải nối vải nên không đẹp. Dần dần, làng nghề tạo ra khung dệt khổ 8 tấc, rồi 9 tấc, đồng thời nghiên cứu làm cho lụa đẹp hơn, bền hơn với nhiều hoa văn tinh xảo như: cẩm tự, hoa dâu, hoa cúc, mặt võng, mặt đệm… Lụa được dệt xong sẽ nhuộm màu bằng trái mặc nưa. Đây là kỹ thuật phát kiến độc đáo nhất của người làng nghề xưa làm cho lụa Tân Châu đen tuyền, óng ả. Nhưng cho đến bây giờ, không ai biết chính xác người nào đã tìm ra cách nhuộm này. Chỉ biết rằng hồi đó, mỗi năm, người làng nghề phải qua Campuchia mua hàng trăm tấn trái mặc nưa mới đủ dùng. Sau này, người Việt trồng thử thấy được nên trồng nhiều đến ngày nay.
Cây mặc nưa là loại cây gỗ có màu đen, lá mỏng, chùm quả tròn trĩnh gần giống như quả nhãn. Quả mặc nưa sau khi thu hái, được phân loại lớn nhỏ khác nhau. Thông thường người ta sẽ chọn quả to và xanh, loại bỏ những quả chín vì không còn nhựa nữa. Sau đó đem giã nát bằng cối đá hoặc nghiền bằng máy và hoà vào nước tạo thành dung dịch có màu vàng sánh rất đẹp, khi tiếp xúc với không khí và nhiệt độ, màu này sẽ chuyển sang màu đen. Trung bình, để nhuộm một cây lụa 10m phải cần 50kg trái mặc nưa. Vì thế, có thể nói, nguyên liệu dùng để nhuộm lụa Tân Châu hoàn toàn là nguyên liệu tự nhiên, không hề có phẩm màu hay hóa chất.
Công đoạn nhuộm lụa được xem là quan trọng và kỳ công bởi lụa không chỉ nhúng một lần mà thậm chí phải nhúng hàng trăm lần để từng sợi tơ được thấm sâu, thấm đều, sau đó mang ra phơi. Khi phơi phải xem trời nắng tốt để phơi được 4 nắng. Quá trình vừa nhúng, vừa phơi phải mất hàng hàng, trải dài trên mặt đất trông rất đẹp và vui mắt. Thời gian nhuộm và phơi mất khoảng 40 – 45 ngày. Thành quả làm ra là những thước lụa tuyệt đẹp, lóng lánh một màu đen đặc biệt. Nét nổi tiếng và độc đáo riêng của lụa Tân Châu chính là sự mềm mại, dai, bền và hút ẩm cao.
wanderlusttips-lua-tan-chau3
Các trang phục may từ lụa Tân Châu đều mang đến cho người mặc cảm giác thoải mái, thoáng mát vào mùa hè, ấm áp về mùa đông. Vì vậy, thật xứng danh khi được mọi người gọi lụa Tân Châu là “Nữ hoàng” của các loại tơ. Do phải mất nhiều thời gian và công sức để làm ra những thước lụa Tân Châu nên giá cả của một thước lụa cũng khá đắt. Chính vì vậy, vào khoảng những năm 60, sản phẩm này dường như không thích hợp với nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước, hơn nữa, do màu sắc còn đơn điệu nên cũng rất “kén” thị trường nước ngoài, từ đó nghề làm lụa truyền thống cũng dần bị mai một.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với xu thế thời trang hướng đến những sản phẩm có chất lượng cao mang dấu ấn dân tộc nên lụa Tân Châu đã bước đầu được khôi phục và tìm được chỗ đứng xứng đáng cho mình. Bên cạnh màu đen truyền thống do nguyên liệu nhuộm tự nhiên của quả mặc nưa, những người sản xuất lụa Tân Châu còn tìm kiếm những kỹ thuật nhuộm nhiều màu khác nhau, đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng của du khách. So với thập niên 50, 60 thì sản lượng lụa làm ra còn kém xa, nhưng chất lượng tơ lụa thì đã ngang tầm với những quốc gia có ngành tơ lụa phát triển. Đây chính là cơ hội quý báu để một làng nghề vốn nổi tiếng đã lặng im từ lâu có thể khôi phục lại như thời vàng son trước kia.
wanderlusttips-lua-tan-chau-1
Làng lụa Tân Châu hôm nay lại tiếp tục một cuộc hành trình mới của những sáng tạo nghệ thuật, của những giá trị truyền đời và một sinh khí lao động mới với đầy những tiếng cười vui lại vang lên trên những nương dâu ngút ngàn dường như vô tận, với tiếng khung cửi ngày đêm lại vang lên như bản hòa tấu được cất lên từ những đôi tay tài hoa của người thợ dệt. Lụa Tân Châu là một sản phẩm thuần Việt, đậm đà tính dân tộc và là niềm tự hào của người Việt. Nghề dệt truyền thống Tân Châu đang sống lại, đó là hạnh phúc lớn đối với những người dân An Giang. Nhưng phải giữ cho được những tấm lụa như thế, đừng để mai mốt lãnh Mỹ A chỉ còn trong ký ức.
Theo cinet

Về thăm quê lụa Tân Châu - An Giang

Về thăm quê lụa Tân Châu - An Giang

Từ xưa, Tân Châu đã nổi tiếng với nghề ươm tơ dệt lụa. Đây cũng chính là nơi sáng tạo nên loại lụa Mỹ A nổi tiếng một thời.
Theo những người lớn tuổi kể lại thì ngày xưa, chị em phụ nữ mà có được một bộ quần áo may bằng lãnh Mỹ A thì thật là sang trọng. Bộ quần áo ấy chỉ dành để mặc vào những ngày lễ, tết. So với lãnh Mỹ A, vải "xá xị Xiêm" - một loại lụa Thái Lan nổi tiếng thời đó - cũng không sánh bằng.
Bên nàng mặc lãnh Mỹ A
Đưa đò sang chợ, tưởng xa hóa gần.
Câu ca truyền miệng từ xưa quanh các bến đò ngang ở đất Tân Châu này chắc hẳn nhiều người còn nhớ. Đó không chỉ là lời tán tỉnh cô gái đẹp của anh lái đò, mà câu ca còn hàm ý kết luận rằng "người đẹp nhờ lụa"... Mà phải là lụa Tân Châu mới càng làm tôn thêm nét duyên dáng, đến nỗi chàng lái đò cảm thấy dòng sông như ngắn lại khi có cô gái mặc lãnh Mỹ A ngồi cạnh.
Khi nghiên cứu về làng nghề của quê hương, nhà văn Mai Văn Tạo mới biết rằng, có một thời, lụa Tân Châu từng có mặt ở Singapor, Philippin và cả quốc gia nổi tiếng về nghề dệt vải là Ấn Độ, bởi nó được giới thượng lưu và hoàng tộc thời đó rất yêu thích.
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ
Quay tơ phải giữ mối tơ
Dẫu năm bảy mối cũng chờ mối anh...
Khung cảnh thanh bình trong bài thơ trên là hình ảnh thời kỳ đầu của nghề ươm tơ, dệt lụa ở Tân Châu. Thời đó, người ta dệt lụa theo khung dệt cổ. Khổ vải dệt ra chỉ rộng khoảng bốn tấc, khi may quần áo phải nối vải nên không đẹp. Dần dần, làng nghề tạo ra khung dệt khổ 8 tấc, rồi 9 tấc, đồng thời nghiên cứu làm cho lụa đẹp hơn, bền hơn với nhiều hoa văn tinh xảo như: cẩm tự, hoa dâu, hoa cúc, mặt võng, mặt đệm v.v...
Độc đáo nhất có lẽ là kỹ thuật nhuộm lụa từ trái mặc nưa, một kỹ thuật làm cho lụa Tân Châu đen tuyền, óng ả, quần áo mặc đến rách mà vải vẫn không bị xuống màu. Đây chính là phát kiến của người làng nghề xưa, nền tảng khiến cho lụa Tân Châu nổi tiếng một thời. Nhưng cho đến bây giờ, không ai biết chính xác người nào đã tìm ra cách nhuộm này. Chỉ biết rằng hồi đó, mỗi năm, người làng nghề phải qua Campuchia mua hàng trăm tấn trái mặc nưa mới đủ dùng. Sau này, người Việt trồng thử, thấy được nên trồng nhiều đến ngày nay.
Theo tư liệu thì trước năm 1945, ở Tân Châu đã có "nhà tằm" lớn của tư nhân, thu hút nhiều thợ ươm tơ, thợ dệt, thợ nhuộm vào làm. Rồi từ "nhà tằm" này, những người thợ học hỏi, trao đổi kinh nghiệm tay nghề cho nhau. Đến thập niên 1960 thì ở Tân Châu đã có hàng trăm nhà dệt quy mô lớn nhỏ khác nhau. Nhiều nhà dệt tiếng tăm còn mãi đến bây giờ như Đỗ Phước Hòa, Trần Văn Tôn, Trịnh Thế Nhân, Trần Văn Nho v.v... Một số con cháu của họ vẫn còn nối nghiệp gia đình đến ngày nay.
Lụa Tân Châu nổi tiếng nhờ dệt bằng tơ tằm. Để có những cuộn tơ vàng óng ả, người Tân Châu đã phải trải qua những tháng ngày trồng dâu nuôi tằm vất vả quanh năm. Có những năm, ruộng dâu trồng đến hơn 10.000 hecta, trải dài từ Tân Châu, Chợ Mới đến tận biên giới Campuchia, mới đủ cung cấp cho tằm ăn.
Nghề nào cũng vất vả, cũng phải chịu gian nan, khổ cực mới gặt hái được thành công. Với người Tân Châu, nghề trồng dâu nuôi tằm cũng khá vất vả. Từng có câu tục ngữ : "Làm ruộng ăn cơm nằm, làm tằm ăn cơm đứng". Tằm phải được chăm sóc suốt ngày đêm, nhất là trong giai đoạn đưa tằm lên bủa giăng tơ. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn vui nhất của làng nghề, cũng giống như ngày nông dân ra đồng thu hoạch vụ mùa.
Sau những bước thăng trầm, làng nghề tơ lụa Tân Châu nay lại được vực dậy, con tằm lại tiếp tục nhả tơ. Ruộng dâu, vườn mặc nưa sống lại. Không những vậy, làng nghề phải nhập thêm kén ươm từ Bảo Lộc, Lâm Đồng về mới đủ cung cấp cho nhu cầu sản xuất. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với các mặt hàng vải vóc hiện đại và đa dạng ngày nay, tơ lụa Tân Châu tỏ ra là một loại hàng khiêm tốn. Nó kén chọn người tiêu dùng, hoặc chủ yếu đáp ứng cho các trào lưu.
Đối với các nhà thiết kế thời trang chuyên nghiệp thì lụa Tân Châu là một sản phẩm thuần Việt, đậm đà tính dân tộc và là niềm tự hào của người Việt nếu chúng ta biết sử dụng chính lụa Việt Nam để tô đẹp thêm nét duyên dáng của phụ nữ Việt Nam.
Nhà thiết kế thời trang Võ Việt Chung đã chọn tơ lụa Tân Châu làm chất liệu chính trong nhiều chương trình giới thiệu thời trang và anh đã thành công ngoài sự mong đợi. Chính sự mềm mại và hoa văn phong phú, độc đáo của lụa Tân Châu đã gợi nên những ý tưởng sáng tạo trong anh. Những mẫu thiết kế bằng chất liệu lụa Tân Châu của anh đã được giới thiệu trong đợt Liên hoan Du lịch ĐBSCL tại An Giang.
Ngày nay, lụa Tân Châu đang từng bước tìm lại sức sống xưa của mình. So với thập niên 50 - 60 thì sản lượng còn kém xa, nhưng chất lượng tơ lụa thì đã ngang tầm với những quốc gia có ngành tơ lụa phát triển. Những sản phẩm bền và đẹp như hiện nay là kết quả của cả một quá trình người làng nghề không ngừng học hỏi, đổi mới công nghệ và luôn tìm ý tưởng sáng tạo nên những mẫu mã mới, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Theo Tin tức Du lịch
Source : http://danviet.vn/net-viet/ve-tham-que-lua-tan-chau-an-giang-109898.html
Kỳ lạ núi Nổi
(LV) - Nằm cách thị xã Tân Châu (An Giang) khoảng 9km, núi Nổi thuộc xã Tân Thạnh nằm giữa đồng rộng mênh mông, vào mùa nước lũ, ngọn núi như bồng bềnh trên mặt nước. Vị thế kỳ lạ khiến nơi đây quanh năm thu hút khách du lịch đến chiêm bái, viếng cảnh…
Sống lại truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh
Từ thị xã Tân Châu xuôi về biên giới Vĩnh Xương, đến cầu An Lôi Thôi rẽ trái thì đến ngọn núi này. Núi Nổi được biết đến là một trong các ngọn núi thấp nhất và nhỏ nhất ở An Giang. Núi cao chỉ khoảng 10m, là những khối đất và đá chất chồng lên nhau tạo nên. Điều lạ hơn, khiến nhiều người tò mò, núi mọc lên ngay giữa vùng đất phù sa tươi tốt của dòng sông Tiền, với cánh đồng rộng mênh mông; bên cạnh đó còn có nhiều hiện tượng kỳ bí, thú vị…
Chùa núi Nổi
Chùa núi Nổi.
Theo tài liệu ghi lại, từ xưa núi Nổi được người dân địa phương ca tụng là “núi linh”, vì hàng năm nạn lụt tràn ngập cũng không hề ngập tới đỉnh núi, mặc dù núi rất thấp. Để thỏa mãn tính hiếu kỳ, các bô lão bèn nghĩ ra cách ghi thử mực nước vào sườn núi. Rồi họ để ý, dù nước vùng đầu nguồn lũ ngập mênh mông đồng ruộng, mực nước ở núi Nổi vẫn lên đúng chỗ đóng dấu. Bởi vậy, ai cũng tin tưởng rằng có thần linh thiêng ngự trị trên đỉnh núi biến phép cho núi cao hơn mực nước giống như truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh của ông bà ta truyền miệng. Sau nhiều thế hệ kiểm chứng điều ấy đúng, người dân mạnh dạn đặt tên núi là núi Nổi.
Anh Sang, người dân địa phương kể, lúc nhỏ, quê chưa có công trình bao đê nên lũ lụt thường rất lớn, ấy thế mà ngọn núi vẫn mọc cao hơn mực nước. “Ai cũng tin là ngọn núi nổi thiệt. Lũ lớn nhà cửa, ruộng đồng ngập hết nhưng nhìn ra vẫn thấy ngọn núi còn nổi giữa đồng”.
Những câu chuyện về sự kỳ lạ của núi Nổi hầu như đứa trẻ địa phương nào cũng biết. Nhiều nhà tu hành chọn nơi yên tĩnh này làm nơi dừng chân. Huyền bí nhất là ông Đạo Một (một mắt), ông nuôi khá nhiều rắn hổ, nhưng con nào cũng hiền lành, không làm hại ai. Sau khi ông Đạo qua đời, rắn cũng tự dưng biến mất. Tại núi Nổi hiện còn cây cột cờ và cái mỏ neo. Nghe kể, ngày xưa, chỗ này là một cù lao ngầm giữa Tiền Giang và Hậu Giang. Thương thuyền Hải Nam chẳng may vướng lên cù lao đó, nên bây giờ còn hai di vật ấy. Đặc biệt hơn, tại núi Nổi còn có cái giếng, nước rất trong, đủ nước cho người dân địa phương dùng quanh năm.
Đi vòng quanh núi hưởng không khí trong lành, thoáng đãng bên cạnh cây sao, cây dầu, cây còng hàng chục, trăm năm tuổi thật thoải mái, êm đềm. Nơi đây là điểm đến lý tưởng cho các hoạt động du lịch khám phá, về nguồn vừa thư giãn vừa tìm hiểu được nhiều kiến thức bổ ích…
Du khách tới tham quan tại chùa núi Nổi
Du khách tới tham quan tại chùa núi Nổi.
Ngôi chùa căn cứ cách mạng
Địa thế ngày xưa thâm u nên núi Nổi trở thành nơi tìm đến của người mộ đạo. Thuở ban sơ, có ngôi chùa được cất bằng tre lá, khoảng trước năm 1945, chùa được tu bổ lại, lợp ngói khang trang. Chùa núi Nổi gắn liền với căn cứ giồng Trà Dên do địa thế bao quanh bởi rừng tre dày, chằng chịt … Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nơi này rất hoang vu, bộ đội ta chọn đóng quân để đánh giặc. Địch lọt vào nơi này xem như chẳng có đường ra. Đại tá Trương Văn Hoàng, Cựu chiến binh thị xã Tân Châu cho biết, vào những năm 60, Chùa trở thành cơ sở cách mạng, nuôi chứa cán bộ, tiếp tế lương thực, đặt hòm thơ liên lạc bí mật. Thầy Trí, thầy Lê Văn Mịnh, thầy Phạm Văn Chẩm... là những hòa thượng có lòng yêu nước, một lòng đi theo cách mạng.
Ông Hoàng kể: “Núi Nổi có vị trí nằm gần căn cứ giồng Trà Dên nên chúng ta còn dùng nơi đây làm bàn đạp, vùng đệm đào tạo, đưa những thanh niên yêu nước vào căn cứ”. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra tại nơi đây. Dù bị địch khủng bố, nhà cửa bị đốt phá, hy sinh tính mạng song không dập tắt lòng yêu nước của người dân nơi đây. Tại giồng Trà Dên, qua hai cuộc kháng chiến có hơn 100 người con lên đường tham gia lực lượng vũ trang đã anh dũng hy sinh, 30 chiến sĩ ngã xuống… Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, núi Nổi còn là pháo đài để ta quan sát cánh đồng vùng biên giới, ngăn chặn sự xâm phạm chủ quyền của Polpot.
Sau ngày đất nước thống nhất, rừng tre và vùng đất hoang hóa năm xưa được cải tạo để lấy đất phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nằm giữa cánh đồng mênh mông, ngọn núi Nổi như nhân chứng ghi lại những chiến tích anh hùng trong kháng chiến của quân dân địa phương. Chùa núi Nổi đã được công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh.

Vào tháng 9 hàng năm, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho người dân, đồng thời tạo sân chơi bổ ích lành mạnh, tại núi Nổi có tổ chức Lễ hội Thể thao - Văn hóa với nhiều hoạt động như: Triển lãm các hình ảnh, hiện vật cách mạng, lịch sử và thành tựu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội quê hương Tân Châu qua các thời kỳ. Đặc biệt, thi đấu thể dục - thể thao và trò chơi dân gian như: Bóng chuyền, nhảy bao bố, đua thuyền trên cạn… thu hút hàng ngàn lượt khách đến tham quan.

Source : http://www.langvietonline.vn/Du-Lich/134851/Ky-la-nui-Noi.html